Nguyên nhân bệnh thận mạn

Bệnh thận mạn ít là một bệnh rất nguy hiểm, tuy nhiên bệnh thường được phát hiện muộn khi bệnh đã nặng. Vì vậy, mọi người dân nên chủ động đi khám định kì đế có những phát hiện và chữa trị kịp thời.

>> Xét nghiệm ADN huyết thống: https://gentis.com.vn/xet-nghiem-adn-huyet-thong

16,8% người trưởng thành mắc bệnh

Theo PGS.TS Đỗ Gia Tuyển, Trưởng khoa Thận Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai cho biết, suy thận mạn là tình trạng suy giảm chức năng thận mạn tính không hồi phục theo thời gian nhiều tháng, nhiều năm, do tổn thương không hồi phục về số lượng và chức năng của các nephron.

Bệnh nhân cần phân biệt rõ bệnh thận mạn tính và suy thận mạn tính. Khái niệm bệnh thận mạn tính đã bao hàm cả suy thận mạn. Như vậy khi 1 người được chẩn đoán bệnh thận mạn tính không đồng nghĩa với suy thận mạn, mà cần biết mình ở giai đoạn nào. Bệnh nhân chỉ được coi là suy thận mạn khi mắc bệnh thận mạn có mức lọc cầu thận < 60ml/phút tương ứng với bệnh thận mạn giai đoạn III, IV, và V.

Bệnh thận giai đoạn cuối hay bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối là giai đoạn nặng nhất của bệnh thận mạn. Các biểu hiện gặp trên lâm sàng là do hậu quả của tình trạng tích tụ các độc chất, nước và điện giải trong máu. Các độc tố này khi thận bình thường được thải qua thận. Hậu quả cuối cùng biểu hiện trên lâm sàng là hội chứng urê máu cao. Suy thận mạn giai đoạn cuối tương ứng với bệnh thận mạn tính giai đoạn 5 (mức lọc cầu thận < 15ml/phút,).

Theo một báo cáo của Mỹ cho thấy, 16,8% người trưởng thành (từ 20 tuổi trở lên) mắc bệnh thận mạn, hơn 500.000 bệnh nhân (BN) điều trị thận suy bằng lọc máu và ghép thận.

Như vậy, tỉ lệ hiện hành của BN bệnh thận mạn giai đoạn cuối (ESRD) ở Mỹ đang tăng lên, trong khi tỉ lệ mắc mới khá ổn định, điều đó cho thấy lượng BN ESRD tăng lên chủ yếu do tuổi thọ của các BN này ngày càng cao.

Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu trên toàn quốc, tuy nhiên nghiên cứu theo từng vùng địa lý cho thấy tỷ lệ người mắc bệnh thận mạn ngày càng tăng cao.

PGS.TS Đỗ Gia Tuyển, Trưởng khoa Thận Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai cho biết: “Một người được coi là mắc bệnh thận mạn khi có 1 trong 2 tiêu chuẩn:

1. Là tổn thương cấu trúc hoặc chức năng thận kéo dài trên 3 tháng, có kèm hoặc không kèm giảm GFR (mức lọc máu cầu thận), bao gồm tổn thương bệnh học thận (trên sinh thiết) hoặc bất thường trong xét nghiệm nước tiểu hoặc máu, hoặc trên chẩn đoán hình ảnh.

2. GFR nhỏ hơn 60ml/phút/ 1.73m2 kéo dài trên 3 tháng, có kèm hoặc không kèm tổn thương thận”.
Hệ thống lọc của thận. Ảnh: BV Bạch Mai

Nguyên nhân bệnh thận mạn

Theo TS Tuyển: “Ở Việt Nam nguyên nhân hàng đầu dẫn đến bệnh thận mạn tính là bệnh cầu thận mạn các thể loại khác nhau, sau đó đến viêm thận bể thận mạn do sỏi, đái tháo đường, tăng huyết áp…”.

Ở Mỹ, đái tháo đường (chiếm 40% ca mắc mới ESRD), tăng huyết áp (25% ca mắc mới), viêm cầu thận (10%), và nguyên nhân khác: bệnh lý đường tiết niệu, thận đa nang, lupus, bệnh thận do thuốc giảm đau, không rõ nguyên nhân....

Bác sĩ Tuyển cho biết thêm: “Những người có nguy cơ cao mắc bệnh thận mạn tính là các bệnh nhân đái tháo đường,tăng huyết áp, xơ vữa mạch, suy tim, bệnh tiết niệu: Bệnh thận–tiết niệu tắc nghẽn, bàng quang thần kinh, các bệnh dị dạng đường tiết niệu cần phẫu thuật, bệnh hệ thống gây tổn thương thận: Lupus ban đỏ hệ thống, viêm mạch,viêm khớp dạng thấp, đa u tủy xương...Những người dùng kéo dài những thuốc sau: Giảm đau chống viêm, thuốc ức chế calcineurin, lithium cacbonate, aminosalicylates... Những người có bố (mẹ) mắc bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 và người trên 65 tuổi”.

Nói chung người mắc bệnh thận mạn ít được phát hiện sớm, đa phần bệnh xuất hiện và tiến triển âm thầm ít có triệu chứng rầm rộ, thường khi được phát hiện đã ở giai đoạn nặng. Vì vậy, cần đi kiểm tra định kỳ để tầm soát bệnh này, phát hiện sớm sẽ giúp cho có biện pháp dự phòng và điều trị để làm chậm tiến triển của bệnh thận mạn tính.

Nhận xét